Phạm Huy Thông (1916-1988)
Trên 40 năm hoạt động khoa học và xã hội, ông đảm đương nhiều chức vụ quan trọng trong các lĩnh vực chính trị, đối ngoại. Với học vấn uyên bác, ông đã cống hiến tất cả tài năng, trí tuệ làm vinh dự cho nền khoa học nước ta, gây tiếng vang đối với nước ngoài. Năm 1987, ông được Viện Hàn lâm khoa học Cộng hoà dân chủ Đức bầu làm Viện sĩ.
Phạm Huy Thông sớm có thơ, ngay từ khi 15-16tuổi ông đã say mê sáng tác văn học và là một trong những nhà thơ mở đầu cho phong trào Thơ Mới cùng với các nhà thơ Thế Lữ, Lưu Trọng Lư... Trong thơ ca, ông là cây bút nổi tiếng về thơ và kịch thơ. Thơ Huy Thông mang cái riêng rất rõ ràng và cũng chịu nhiều ảnh hưởng thơ lãng mạn phương Tây thế kỷ XIX... Ông cũng là một trong số rất ít những nhà thơ lãng mạn có được hơi thở khoẻ khoắn, mang âm hưởng hùng ca. Các tác phẩm của ông đăng tải ở Hà Nội và Sài Gòn trong những năm 1934 - 1937 được bạn đọc nhiệt liệt hoan nghênh như Tiếng địch sông Ô, Con voi già, Anh Nga, Yêu đương .v.v...
Phạm Huy Thông sáng tác không nhiều, sự nghiệp văn chương của ông tập trung chủ yếu ở những năm đầu của thời thanh niên. Song chỉ chừng ấy thôi cũng đủ để ghi nhận ông là một trong những nhà thơ xuất sắc những năm 30 của thế kỷ XX. Trong bộ Thi nhân Việt Nam, nhà phê bình văn học Hoài Thanh và Hoài Chân đã nhận xét về ông "Hơi văn mà đến thế thực là bậc phi thường". Sau năm 1955 hầu hết công trình của ông nghiêng hẳn về nghiên cứu lịch sử và khảo cổ học. Ông đã góp nhiều công trình nghiên cứu sử học, văn học có giá trị về học thuật.
Trong phạm vi học thuật, Phạm Huy Thông nghiên cứu khá nhiều lĩnh vực: ngôn ngữ, sử học, khảo cổ học, văn học, đề tựa cho sách dẫn luận nghiên cứu văn học dân gian. Ông đã chỉ đạo biên soạn bộ ngữ pháp tiếng Việt, từ điển tiếng Pháp cùng các công trình nghiên cứu tư tưởng xã hội Việt Nam. Khi phụ trách Viện Khảo cổ học, ông đã chủ trì những công trình nghiên cứu về thời kỳ Hùng Vương dựng nước, về trống đồng Việt Nam, đồng thời là Tổng Biên tập Tạp chí Khảo cổ học. Phạm Huy Thông cũng là một người hoạt động quốc tế xuất sắc, từng tham dự nhiều hội nghị quốc tế về khảo cổ học, trình bày nhiều chuyên đề khảo cổ học Việt Nam ở Pháp, Úc, Mỹ, Nhật. Qua đó mà giới khảo cổ học thế giới biết đến và đánh giá cao thành tựu khảo cổ học Việt Nam. Ông mất ngày 23/6/1988 tại Hà Nội. Năm 2000, ông được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về công trình nghiên cứu khảo cổ (Con Moong, Trống đồng Đông Sơn và 4 bài dẫn luận thời đại Hùng Vương).
Theo cuốn "Danh nhân Hưng Yên"