Đồng chí Lê Thanh Nghị với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc
Đồng chí Lê Thanh Nghị, tên thật là Nguyễn Khắc Xứng, sinh ngày 6/3/1911, trong một gia đình nho giáo, có truyền thống yêu nước, tại làng Thượng Cốc, nay thuộc xã Gia Khánh, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
Xuất thân trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước, căm ghét chế độ thực dân phong kiến, Lê Thanh Nghị sớm hình thành ý chí cách mạng, đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược. Năm 16 tuổi, Lê Thanh Nghị ra Hải Phòng làm thợ điện ở Nhà máy Điện Cửa Cấm. Sau khi bị thất nghiệp, Lê Thanh Nghị ra vùng mỏ làm ở Nhà máy Điện Cọc 5, rồi trở về Vàng Danh làm phu mỏ. Tại đây, năm 1928, Lê Thanh Nghị được đón nhận ánh sáng thời đại qua sách báo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Năm 1929, Lê Thanh Nghị gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Năm 1930, Lê Thanh Nghị được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 5/1930, đồng chí bị chính quyền thực dân Pháp bắt giam tại nhà tù Hải Phòng, tuyên án tù chung thân và đày ra Côn Đảo.
Năm 1936, đồng chí Lê Thanh Nghị cùng một số chiến sĩ cách mạng được ân xá nhưng vẫn bị quản thúc tại quê nhà. Đồng chí đã xin làm ở Nhà máy Nước Ninh Giang để có điều kiện tiếp tục hoạt động cách mạng. Không bao lâu sau, đồng chí bắt được liên lạc với tổ chức Đảng, hoạt động bí mật ở Hải Dương và Hải Phòng, xây dựng nhiều cơ sở Đảng.
Giữa năm 1939, đồng chí Lê Thanh Nghị được Xứ ủy Bắc Kỳ cử tham gia Liên tỉnh ủy B (gồm Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Kiến An và vùng mỏ Quảng Ninh), được giao trực tiếp phụ trách tổ chức Đảng ở Hải Dương và vùng mỏ.
Cuối năm 1939, đồng chí Lê Thanh Nghị bị bắt lần thứ hai, toà án thực dân kết án 5 năm tù, đầy lên nhà tù Sơn La. Đầu năm 1945, đồng chí Lê Thanh Nghị được trả tự do, tiếp tục hoạt động cách mạng và được chỉ định vào Thường vụ Xứ uỷ Bắc Kỳ. Ngày 9/3/1945, tại Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng, đồng chí được giao trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng An toàn khu II (gồm Bắc Giang, Phúc Yên, Vĩnh Yên, Phú Thọ và một phần Thái Nguyên).
Tháng 4/1945, Đồng chí được cử làm Ủy viên thường trực Uỷ ban Quân sự Bắc Kỳ, trực tiếp phụ trách chiến khu Trần Hưng Đạo (còn gọi là chiến khu Đông Triều).
Sau Cách mạng tháng Tám, đồng chí Lê Thanh Nghị là Xứ uỷ viên Xứ uỷ Bắc Kỳ, phụ trách vùng duyên hải Bắc Bộ; năm 1946 làm Thường vụ Xứ uỷ Bắc Kỳ. Khi toàn quốc kháng chiến, đồng chí làm Bí thư Khu uỷ khu III, kiêm Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính khu III. Đầu năm 1948, đồng chí làm Phó Bí thư Liên khu III, cuối năm đó được cử giữ chức Chánh Văn phòng Trung ương Đảng. Cuối năm 1949, đồng chí trở về làm Phó Bí thư Liên khu uỷ khu III.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng năm 1951, đồng chí Lê Thanh Nghị được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trực tiếp làm Bí thư Liên khu uỷ, kiêm Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính khu III và Chính uỷ Bộ Tư lệnh Liên khu III, năm 1953 - 1954 kiêm Bí thư Thành uỷ Hà Nội.
Cuối năm 1954, lần thứ hai đồng chí được cử làm Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, cuối năm 1955, đồng chí giữ chức Bộ trưởng Bộ Công nghiệp.
Tháng 10/1956, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 10 mở rộng, đồng chí Lê Thanh Nghị được bầu bổ sung vào Bộ Chính trị.
Năm 1960, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, đồng chí được bầu lại vào Bộ Chính trị, sau đó được Quốc hội bầu làm Phó Thủ tướng Chính phủ, kiêm Chủ nhiệm Văn phòng Công nghiệp; năm 1967 kiêm Trưởng Ban Công nghiệp Trung ương. Từ năm 1974 đến năm 1980, đồng chí tiếp tục làm Phó Thủ tướng Chính phủ, kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước; năm 1980, được bầu làm Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng. Từ tháng 7/1981 đến tháng 12/1986, đồng chí được Quốc hội bầu làm Phó Chủ tịch, kiêm Tổng Thư ký Hội đồng Nhà nước. Đồng chí là đại biểu Quốc hội từ khoá II đến khoá VII.
Ngày 16/8/1989, đồng chí Lê Thanh Nghị mất tại Hà Nội.
Gần 60 năm hoạt động cách mạng, đồng chí Lê Thanh Nghị luôn chấp hành tốt kỷ luật của Đảng, sự phân công, điều động của tổ chức và hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao với tinh thần đặt lợi ích của Đảng và dân tộc lên trên hết. Trên cơ sở tiếp thu truyền thống đạo đức của dân tộc, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đồng chí Lê Thanh Nghị đã thấm nhuần các chuẩn mực đạo đức của người cách mạng "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư". Trong kháng chiến gian khổ cũng như trong thời bình, đồng chí vẫn luôn giữ nếp sống giản dị, trong sạch, trung thực, liêm khiết, gắn bó với Nhân dân, với cán bộ.
Kỷ niệm 110 năm ngày sinh đồng chí Lê Thanh Nghị (06/3/1911 - 06/3/2021), là dịp để chúng ta ôn lại cuộc đời, sự nghiệp và tôn vinh công lao, cống hiến to lớn của đồng chí đối với Đảng và đất nước; qua đó giáo dục tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, cổ vũ, động viên các tầng lớp Nhân dân tích cực thi đua học tập, lao động, công tác và chiến đấu góp phần thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước.
Tài liệu tham khảo:
1. Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 110 năm Ngày sinh đồng chí Lê Thanh Nghị (06/3/1911 - 06/3/2020) của Ban Tuyên giáo Trung ương
2. Địa chí Hải Dương. Tập 2. - H. : Chính trị Quốc gia, 2008. - 753tr. ; 27cm
Vũ Thị Hậu sưu tầm và biên soạn